Mục lục:
Karaoke là một hình thức giải trí bằng cách đệm nhạc theo lời bài hát trên màn hình. Từ karaoke có gốc từ kara (không, cũng như trong môn võ karate – từ kara có nghĩa là không) và oke (ōkesutora có nghĩa là “dàn nhạc”, có gốc từ tiếng Anh orchestra) trong tiếng Nhật. Thông thường một bài hát được ghi âm bao gồm người hát và nhạc đệm. Thay vì bài hát có cả nhạc đệm và xướng âm, các video karaoke có nhạc của bài hát. Phần xướng âm sẽ được người tham gia hát trực tiếp (và không phải là chuyên nghiệp), người sẽ cầm microphone hát theo những dòng chữ lời bài hát hiện trên màn hình trên nền nhạc giai điệu của bài hát.
Lịch sử hình thành Karaoke

Nguồn gốc của karaoke ở Nhật Bản không thể tách rời khỏi các quán bar chơi piano và guitar truyền thống vốn là địa điểm giải trí chủ yếu của các doanh nhân Nhật từ nhiều năm về trước. Karaoke do ông Inoue Daisuke người Nhật phát minh vào năm 1971, khi ông 31 tuổi. Lúc ấy Inoue là một người chơi keyboard trong một câu lạc bộ.
Karaoke lần đầu tiên được biết đến tại một quầy bar ở thành phố Kobe của Nhật Bản. Tại Nhật Bản thời đó, hình thức giải trí âm nhạc đã khá phổ biến trong những buổi tiệc. Theo như một câu chuyện được kể lại rằng, tại một quán bar, trong một buổi biểu diễn, khi cây ghi ta không đến chơi được vì bị ốm, người chủ cửa hàng đã chuẩn bị những bǎng nhạc thu thanh sẵn và ca sĩ lại hát theo bǎng. Hình thức này đã được nhiều khách hưởng ứng và thậm chí họ cũng muốn thử hát. Nhận thấy đó là một thị trường đầy tiềm năng, chủ cửa hàng đã cho sản xuất những máy karaoke được đặt tại các cửa hàng, các khách sạn, và được ghi sẵn nhiều bài hát. Karaoke sẽ tiếp tục có những bước tiến xa hơn trong cả hai phát triển công nghệ và phổ biến. Ngày nay karaoke đã phổ biến hầu như khắp thế giới. Năm 2004, Inoue được trao giải Ig Nobel về hòa bình do phát minh của mình.
Người phát minh karaoke không đăng ký bản quyền.
Công nghệ đổi mới sáng tạo và dàn karaoke
Mặc dù karaoke là lần đầu tiên một giải trí chủ yếu cho những người kinh doanh, nó đã phát triển được một giải trí trên toàn quốc, nhờ sự phát triển công nghệ và kinh doanh mới được gọi là”dàn karaoke”.

Ban đầu trong hình thức của băng đệm một bài hát nổi tiếng, karaoke tiến hóa để các đĩa nhỏ gọn, có thể xác định vị trí bắt đầu của một bài hát ngay lập tức. Sự phát triển này cũng có thể tăng cường cảnh video để tạo ra một bầu không khí thích hợp cho mỗi bài hát được thực hiện, hiển thị trên một màn hình TV cùng với các từ.
Sử dụng đổi mới công nghệ như đĩa video, đĩa laser, và CD-G, karaoke đã phát triển được một ngành công nghiệp giải trí lớn. Bộ gia đình sử dụng karaoke cũng đã trở nên phổ biến, làm cho vui chơi giải trí trước đây là hạn chế đến tối các điểm có thể có trong nhà.
Tuy nhiên, có một trở ngại cho mục tiêu này của doanh nghiệp: vì hầu hết các ngôi nhà Nhật Bản đứng gần nhau và vẫn đang được xây dựng bằng gỗ, cách âm kém, nó sẽ rất khó chịu của những người hàng xóm hát vào micro vào ban đêm.
Nắm bắt khi cơ hội được tạo ra bởi vấn đề này, các nhà doanh nghiệp tạo ra các dàn karaoke, một cơ sở bên đường có chứa đóng cửa phòng cách nhiệt cho ca hát. Chúng được quảng cáo như là một nơi mà bạn có thể hát với nội dung trái tim của bạn. Dàn karaoke đầu tiên xuất hiện vào năm 1984 tại một cánh đồng lúa ở vùng nông thôn của tỉnh Okayama, phía Tây của khu vực Kansai (nay là Kinki). Nó được xây dựng từ một chiếc xe vận tải hàng hóa chuyển đổi.
Kể từ đó, các dàn karaoke được xây dựng trên cơ sở trống khắp Nhật Bản, và trong các khu vực đô thị, phòng karaoke, trong đó bao gồm các khoang được thực hiện bởi phòng phân vùng và cách âm trong một tòa nhà, đã được giới thiệu và thiết lập một.
Như các cơ sở này đã được thành lập chủ yếu để cung cấp chỗ để vui chơi ca hát, họ đã trở thành phổ biến rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực dân số – lao động nữ văn phòng, bà nội trợ, sinh viên đại học, và thậm chí cả học sinh trung học.
Từ dàn karaoke được cơ sở đóng cửa, họ đã trở thành một đối tượng của công chúng quan tâm như nơi trú ẩn tiềm năng cho những hành động xấu trong giới trẻ. Mặt khác, tuy nhiên, vì không phải một vài gia đình thích hát với nhau trong dàn karaoke.
Dàn karaoke cũng đóng một vai trò như là một nơi để giao tiếp trong gia đình qua việc ca hát. Điều này là rất quan trọng tại một thời điểm khi khoảng cách thế hệ và sự tan vỡ gia đình là một mối quan tâm trên toàn quốc.
Làm thế nào, sự bùng nổ karaoke đã lan rộng ra nước ngoài, được hưởng không chỉ ở Hàn Quốc và Trung Quốc mà còn ở khu vực Đông Nam Á, Mỹ và châu Âu. Kể từ khi hát karaoke sẽ hiển thị những từ và những cảnh của một bài hát trên một màn hình, nó cũng đã được thu hút sự chú ý của các nước đang cố gắng để cải thiện tỷ lệ biết chữ của họ, như là một công cụ giáo dục tốt.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KARAOKE:
Thời điểm ban đầu, thị trường không quan tâm nhiều đến hình thức giải trí này. Thế nhưng, dần dần khi người sử dụng đã hiểu về thiết bị. Tiếp theo đó là sự ra đời của các “hộp karaoke” được cách âm. Nhằm mang đến sự tự do cũng như không làm phiền hà đến những người xung quanh.

Người Nhật có thái độ không phán xét khi nghe người khác hát. Có lẽ lý do thuyết phục nhất giải thích sự thành công rực rỡ của karaoke đó là sự “tự do”.
Bạn có thể thoải mái thể hiện ca khúc mình yêu thích theo phong cách riêng của chính mình. Đây cũng là lý do cho sự ra đời của dữ liệu nhạc Midi.
Việc mô phỏng loại nhạc cụ thông qua sound bank (ngân hàng âm thanh) tích hợp thiết bị phát Midi.
Đồng hành sự phát triển nhu cầu cảm thụ âm nhạc. Khả năng mô phỏng nhạc cụ dữ liệu Midi có nhiều sự thay đổi. Thông qua khả năng lấy mẫu nhạc cụ ngày càng chi tiết. Dung lượng của sound bank không ngừng được mở rộng.
Thế nhưng, khả năng mô phỏng của Midi cũng đến lúc phải nhường chổ cho sự tiếp nối. Thay thế bởi dữ liệu nhạc VOD (video on demand) ưu việt hơn. VOD dần thay thế Midi.
Hiện diện nhiều hơn trong phòng hát chuyên nghiệp và ngay cả karaoke gia đình. Giờ đây, bạn có thể tự do thể hiện bài hát yêu thích với nhiều cảm xúc. Bởi dữ liệu hình ảnh và âm thanh chân thực được tích hợp bên trong mỗi file dữ liệu VOD.
VĂN HÓA KARAOKE:
Karaoke không chỉ dừng lại là một loại hình giải trí mà có thể xem đó là một văn hóa âm nhạc. Mà còn phát triển khác nhau ở nhiều quốc gia. Như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc, Philipines, Mỹ, các nước Châu Âu…

Mỗi quốc gia lại có văn hóa ca hát khác nhau. Tại Nhật Bản hay Hàn Quốc các quán thường chỉ có diện tích nhỏ. Và nhu cầu âm thanh không quá ồn ào. Nếu đặt chân đến Philipines- quốc gia yêu thích ca hát. Bạn sẽ nhận thấy hầu như bất kỳ nhà nào cũng sở hữu. Và rất dễ bắt gặp những karaoke box trên mọi nẻo đường.
Tại Việt Nam cũng như Philipines. Bạn sẽ thấy rằng, rất nhiều gia đình sở hữu dàn karaoke. Và cũng không quá khó để tìm một quán chất lượng tại Việt Nam. Xu hướng karaoke tại Việt Nam có phần khác so với phần còn lại trên thế giới. Thông thường âm thanh trong các phòng hát chuyên nghiệp. Đòi hỏi các sản phẩm phải chịu được áp lực.
Xem thêm: Tổng hợp kiến thức Karaoke hay
KARAOKE HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM:
Tại Việt Nam vào những năm 2000. Khi dàn karaoke chỉ gồm đầu phát, ampli và loa. Các bài hát được phát hành ở dạng đĩa DVD với chừng vài chục đến trăm bài. Đầu phát karaoke được điều khiển thông qua remote.
Nhưng giờ đây một dàn karaoke được trang bị rất hiện đại. Người sử dụng có thể điều khiển chuyển bài thông qua smartphone, tablet. Các bài hát được lưu trữ ở trong những ổ đĩa lên đến hàng chục TB. Với hàng trăm ngàn bài hát. Bài hát có thể được cập nhật thông qua internet. Âm thanh được nâng cấp mạnh mẽ. Với cục đẩy công suất kết hợp với mixer. Loa được thiết kế chuyên dụng cho với công suất lớn. Các loại sub chuyên dụng được sử dụng để tăng hiệu quả trình diễn âm thanh cho người hát.

Hơn thế nữa, karaoke không chỉ dừng lại ở các nhà hàng, phòng hát. Mà bất kỳ gia đình nào cũng có thể sở hữu một dàn chuyên nghiệp. Có thể nói đã trở thành một nhu cầu phổ biến đặc biệt là ở Việt Nam.
TÍNH KẾ THỪA, KINH TẾ VÀ TRIẾT LÝ:
Ban đầu karaoke chỉ là một loại hình giải trí. Nhưng hiện nay đã là một ngành công nghiệp trị giá hàng tỉ dollar. Karaoke phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất. Thiết bị âm thanh. Ngành công nghiệp media cũng phát triển. Để tạo ra những video chất lượng về âm thanh và hình ảnh. Sự phát triển của các phần mềm karaoke. Tại Việt Nam chúng ta có thể thấy sự phát triển của các đơn vị thiết kế phòng hát chuyên dùng.
Karaoke ra đời thúc đẩy sự phát triển các thiết bị giải trí như loa, ampli, micro phone, processor. Khi nhu cầu hát karaoke càng trở nên phổ biến. Hệ thống âm thanh cho karaoke trở nên đa dạng với nhiều thiết bị hỗ trợ. Những thương hiệu lớn tham gia nhiều hơn đem lại màu sắc phong phú cho lĩnh vực giải trí này. Tại Việt Nam, chúng ta thường bắt gặp những thương hiệu âm thanh nổi tiếng. Trong ngành karaoke như JBL, TJ và đặc biệt là BMB đến từ Nhật Bản – cái nôi ngành công nghiệp karaoke.
Giá trị lớn nhất cho sự phát triển mọi công nghệ là tính kế thừa, karaoke cũng vậy. Cảm hứng cho sự phát triển sản phẩm là trải nghiệm người dùng. Nhưng sự thừa kế các giá trị nền tảng nhiều năm là điều làm nên cốt cách của sản phẩm. Vậy nên, các sản phẩm phục vụ cho karaoke luôn có nét khác biệt. Và triết lý cuối cùng của sản phẩm là tôn vinh giọng hát.
Tác giả: Trần Trung